19:46 EDT Thứ năm, 18/04/2024
CHÀO MỪNG TRUY CẬP TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG BÌNH

MENU

VĂN BẢN PHÁP LUẬT

 Thư viện pháp luật
 Văn bản ngành KSND

CALENDAR

TIN MỚI NHẤT

Trang nhất » Tin Tức » Kiểm sát viên viết

THỰC TIỄN THỰC HIỆN BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2003 VÀ NHỮNG KIẾN NGHỊ SỬA ĐỔI, BỔ SUNG

Chủ nhật - 11/01/2015 22:13
Bộ luật tố tụng hình sự 2003 (BLTTHS) được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 26 tháng 11 năm 2003 đến nay đã được thực hiện một cách nghiêm túc trên thực tiễn. Bộ luật này đã đánh dấu một bước quan trọng trong kỹ thuật lập pháp của Việt Nam thể hiện sự tiến bộ vượt bậc của Nhà nước ta, nó tổng kết từ thực tiễn, khắc phục những hạn chế của BLTTHS 1988 và phát triển những ưu điểm của nó đồng thời pháp điển hóa những văn bản hướng dẫn để quy định vào BLTTHS năm 2003.
Qua một thời gian thực hiện BLTTHS, phải nói rằng nó có tác dụng rõ rệt trong công tác điều tra, truy tố, xét xử. Nó quy định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng cơ quan tiến hành tố tụng cũng như những người tiến hành tố tụng. Hơn nữa, BLTTHS cũng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng hơn bao giờ hết. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện BLTTHS cũng còn bộc lộ một số hạn chế làm cho việc điều tra, truy tố, xét xử nhiều khi không phù hợp với thực tiễn. Mối quan hệ giữa BLTTHS (luật về hình thức) và Bộ luật hình sự (luật về nội dung) chưa có sự liên kết chặt chẽ dẫn đến việc xử lý những hành vi phạm tội đôi khi chưa được chính xác.
Để đáp ứng được Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 và Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới, để đóng góp ý kiến cho việc dự thảo BLTTHS sửa đổi, bổ sung tới đây, trên cơ sở tổng kết việc thực hiện BLTTHS năm 2003 đến nay thấy có những vướng mắc, hạn chế nổi lên trong công tác khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử vì thế trong phạm vi bài này tác giả chỉ nêu những vướng mắc thường gặp chủ yếu ở cấp huyện thông qua công tác kiểm sát để các cấp có thẩm quyền xem xét, nghiên cứu bổ sung, thay đổi những quy định chưa phù hợp với thực tiễn, khắc phục những hạn chế tồn tại và phát huy những ưu điểm để góp phần vào công cuộc phòng chống tội phạm có hiệu quả, nâng cao pháp chế XHCN.
I. ĐÁNH GIÁ CHUNG
Các cơ quan tiến hành tố tụng về cơ bản có sự phối kết hợp chặt chẽ, thường xuyên trao đổi thông tin nhằm xác định án trọng điểm cũng như diễn biến tình hình của tội phạm, giải quyết những vướng mắc của những người tiến hành tố tụng trên thực tế nhằm giải quyết vụ án hình sự một cách nhanh chóng, kịp thời, đúng thời hạn.
Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán đã chủ động trao đổi đối với những vụ án có tình tiết phức tạp, những vụ án mà dư luận quan tâm nhằm giải quyết triệt để những mâu thuẫn, hành vi mà các đối tượng phạm tội thực hiện nhằm làm sáng tỏ vụ án để truy tố, xét xử đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
Chất lượng điều tra và kiểm sát điều tra ngày một nâng lên nên. Từ trung ương cho đến cơ sở đã nổ lực trong việc thi hành BLTTHS và có những văn bản hướng dẫn, chỉ đạo để hạn chế tối đa việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung chứng cứ. Trong quá trình kiểm sát nếu phát hiện sai sót ở giai đoạn nào Kiểm sát viên đã chủ động yêu cầu, phối hợp khắc phục kịp thời đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo và những người khác.
Việc thu thập, đánh giá, sử dụng, chứng cứ ngày một nâng cao. Tất cả những vụ án quy định về cấu thành vật chất đều được Cơ quan điều tra tiến hành giám định, định giá kịp thời nhằm xử lý các hành vi phạm tội đúng với quy định của Bộ luật hình sự.
Tất cả những vụ án mà Cơ quan điều tra kết thúc điều tra đề nghị truy tố  phần lớn Viện kiểm sát nhân dân đều có bản cáo trạng truy tố ra Tòa án để xét xử đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
Các phiên tòa khi đưa ra xét đảm bảo 100% có Kiểm sát viên tham gia để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Đồng thời phát huy hết vai trò của Kiểm sát viên tại phiên tòa trong phần tranh tụng đảm bảo những tình tiết của vụ án làm sáng tỏ và đề nghị mức án với Hội đồng xét xử, bảo vệ thành công bản Cáo trạng.
Các quyền bào chữa đối với bị can, bị cáo được thực hiện một cách nghiêm túc đặc biệt là những trường hợp chỉ định (bắt buộc có người bào chữa tham gia).
II. ƯU VÀ KHUYẾT ĐIỂM KHI THỰC HIỆN BLTTHS
1. Ưu điểm
Từ thực tiễn thi hành BLTTHS thấy có nhiều chuyển biến tích cực trong hoạt động tố tụng. Các cấp, các ngành đều hiểu rõ của việc phòng, chống tội phạm nên công tác khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử luôn được sự quan tâm từ các cơ quan có thẩm quyền cho đến người dân. Một số ưu điểm nổi lên khi thực hiện BLTTHS rõ nét nhất:
- Mối quan hệ giữa các cơ quan VKSND, CQĐT và một số cơ quan được giao một số hoạt động điều tra như Kiểm lâm, Hải quan, Bộ đội biên phòng... ngày càng được nâng cao, sự phối hợp của các cơ quan này thể hiện sự thống nhất trong việc điều tra, xử lý tội phạm. Những vấn đề vướng mắc khi thực hiện pháp luật được các cơ quan đưa ra bàn thảo để có phương hướng xử lý chung, đảm bảo yêu cầu của tình hình từng thời điểm. Thường xuyên tổ chức các cuộc họp liên ngành để đánh giá tình hình tội phạm trong từng thời kỳ, quyết định những vụ án nào là án trọng điểm để phân công những Điều tra viên, Kiểm sát viên có khả năng nhằm giải quyết vụ án một cách nhanh chóng, đúng pháp luật kịp thời đáp ứng với tình hình chính trị, tuyên truyền pháp luật góp phần vào phòng, chống tội phạm.
- Giữa Điều tra viên và Kiểm sát viên cũng có sự quan hệ phối hợp nhất định, họ đã chủ động trao đổi, tranh luận với nhau giữa các tình tiết của vụ án, đề ra yêu cầu đối với từng bị can, từng trường hợp để thu thập chứng cứ, hồ sơ đầy đủ nhằm hạn chế thấp nhất việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
- Viện kiểm sát nhân dân đã thực hiện tốt công tác kiểm sát việc bắt, tạm giữ, tạm giam nên chất lượng bắt, tạm giữ, tạm giam trên địa bàn được nâng cao. Các Kiểm sát viên được phân công THQCT và KSĐT đã đảm bảo việc bắt giữ có căn cứ, đúng pháp luật phục vụ tốt cho công tác điều tra, truy tố và xét xử. Kiên quyết không phê chuẩn bắt, giữ đối với những trường hợp không rõ căn cứ, không đúng quy định của CQĐT.
- Viện kiểm sát nhân dân đã chú trọng đến khâu giải quyết, tố giác tin báo về tội phạm bằng việc phân công Kiểm sát viên có trình độ, năng lực và kinh nghiệm kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm. Do công tác kiểm sát giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm tốt nên kèm theo đó tất cả các vụ án hình sự khi CQĐT khởi tố thì 100% các vụ án đó đều được kiểm sát điều tra ngay từ ban đầu một cách chặt chẽ đảm bảo việc khởi tố, điều tra, truy tố có căn cứ, đúng quy định hạn chế được các thiếu sót, không làm oan người vô tội và không bỏ lọt tội phạm.
- Trong công tác THQCT và KSXX hình sự, hai cơ quan Tòa án và Viện kiểm sát có sự phối hợp tốt quá trình giải quyết vụ án. Những vụ án trọng điểm đều phân công Thẩm phán, Kiểm sát viên có trình độ, năng lực và kinh nghiệm giải quyết. Các vụ án đưa ra xét xử lưu động đều được quần chúng nhân dân ủng hộ thông qua quyết định hình phạt trên cơ sở của Kiểm sát viên đề nghị nên có tác dụng giáo dục, tuyên truyền pháp luật đi vào cuộc sống của nhân dân.
Thông quan hoạt động kiểm sát, Viện kiểm sát nhân dân đã kịp thời phát hiện những vi phạm của CQĐT khi điều tra xử lý các vụ án hình sự như chưa đảm bảo quyền lợi của người bị hại, chưa đảm bảo được quyền lợi của bị can, việc định giá tài sản bị thiệt hại chưa đúng, chưa cụ thể... nên có những yêu cầu, kiến nghị đối với những vi phạm có tính chất chưa nghiêm trọng để CQĐT có những hoạt động điều tra đúng quy định hơn trong những vụ án sau, ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung đối với những vụ án cụ thể để thu thập thêm những chứng cứ liên quan đến vụ án nhằm làm rõ sự thật để đảm bảo việc truy tố, xét xử đúng người, đúng tội và đúng pháp luật. Trong kiểm sát xét xử, Viện kiểm sát nhân dân cũng đã kịp thời phát hiện những vi phạm của Tòa án để có những kiến nghị phù hợp nhằm làm cho việc xét xử đúng pháp luật. Qua phiên tòa một mặt Kiểm sát viên bảo vệ bản Cáo trạng, mặt khác cũng đã có những đề xuất phù hợp với tình tiết vụ án cũng như mức hình phạt. Viện kiểm sát nhân dân cũng đã kịp thời kháng nghị đối với những bản án có vi phạm pháp luật nghiêm trọng hay mức án được tuyên chưa phù hợp với tính chất mức độ của tội phạm đã thực hiện.
2. Khuyết điểm
Đi đôi với những ưu điểm đạt được như trên thì một số khuyết điểm còn tồn tại:
- Tại Điều 37 BLTTHS có quy định “...c) Triệu tập và hỏi cung bị can; triệu tập và lấy lời khai của người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án...”, nhưng một số Kiểm sát viên vẫn chưa sử dụng quyền năng này vào việc kiểm sát điều tra nhằm làm rõ thêm mục đích, động cơ phạm tội. Qua kiểm sát việc điều tra của CQĐT, Kiểm sát viên cũng ít khi cùng Điều tra viên hỏi cung bị can hoặc những người khác để làm rõ những vấn đề của vụ án, đặc biệt đối với những vụ án kinh tế, chức vụ, có những hành vi phạm tội không những ảnh hưởng đến tài sản của chủ sở hữu mà nó còn ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe, tinh thần của người bị hại vì thế nhiều khi cần làm rõ thêm hậu quả mà hành vi tội phạm gây ra cần phải có sự phối kết hợp giữa Kiểm sát viên và Điều tra viên trong việc hỏi cung bị can hoặc lấy lời khai bị hại, người làm chứng...
- Khi CQĐT đề nghị phê chuẩn các biện pháp ngăn chặn, Kiểm sát viên khi nghiên cứu hồ sơ chưa nghiên cứu hết những tài liệu liên quan để xem xét có cần thiết phải áp dụng biện pháp ngăn chặn (tính có căn cứ) hay không, nếu áp dụng thì áp dụng biện pháp ngăn chặn nào là phù hợp. Nhiều trường hợp CQĐT thu thập chứng cứ để đề nghị áp dụng, Kiểm sát viên có thể trực tiếp đến để hỏi ngay người bị khởi tố về những tình tiết liên quan xem việc thu thập chứng cứ của Điều tra viên có đúng sự thật không, có khách quan không, để từ đó có những đề xuất phù hợp với lãnh đạo quyết định việc phê chuẩn các biện pháp ngăn chặn, nhưng nhiều khi Kiểm sát viên không áp dụng dẫn đến áp dụng các biện pháp ngăn chặn không đúng trường hợp theo quy định của pháp luật.
- Một số Kiểm sát viên khi nghiên cứu hồ sơ chưa nghiên cứu kỹ về độ tuổi của những người phạm tội cũng như hoàn cảnh gia đình của họ, đối với những người phạm tội xâm phạm sở hữu ở độ tuổi chưa thành niên có số lượng tương đối nhiều, gia đình của họ cũng phần lớn là gia đình không có điều kiện về nhiều mặt, vì thế xác định tuổi và hoàn cảnh gia đình để chúng ta xem xét có thuộc trường hợp bắt buộc phải có luật sư, người bào chữa hay không. Trong trường hợp bắt buộc quy định tại Điều 57 BLTTHS mà không có luật sư hoặc người bào chữa bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ thì hồ sơ vụ án đó vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng dẫn đến việc trả hồ sơ.
- Trong việc khám nghiệm hiện trường quy định tại Điều 150 BLTTHS, những vụ án xâm phạm sở hữu thường hay có hiện trường chứa đựng rất nhiều thông tin như Trộm cắp tài sản, Cướp tài sản, Hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản... Kiểm sát viên vẫn còn hạn chế trong việc kiểm sát việc khám nghiệm. Khi khám nghiệm hiện trường, Điều tra viên tiến hành khám nghiệm, nhiều Kiểm sát viên có tính quan liêu không trực tiếp quan sát, xem xét những dấu vết để lại của người phạm tội, giám sát việc thu thập chứng cứ của Điều tra viên để kịp thời yêu cầu Điều tra viên chấp hành đúng pháp luật về khám nghiệm hiện trường, Kiểm sát viên chỉ ký vào biên bản khám nghiệm sau khi khám nghiệm xong, chính sai lầm này có thể dẫn đến để lọt tội phạm, những chứng cứ thu thập được có thể không khách quan, toàn diện. Cũng từ lý do như trên nên, nên nhiều khi CQĐT đi khám nghiệm hiện trường không thông báo cho VKS biết để phân công Kiểm sát viên tham gia khám nghiệm, VKS cũng không có những yêu cầu, kiến nghị khắc phục trong vấn đề này, đây cũng là một thiếu sót.
- Trong thực nghiệm điều tra, BLTTHS quy định tại Điều 153 như sau “...Trong trường hợp cần thiết, Viện kiểm sát có thể tiến hành thực nghiệm điều tra. Việc thực nghiệm điều tra được tiến hành theo quy định tại ...”, việc thực nghiệm điều tra giúp cho Kiểm sát viên nắm rõ hơn về tính chất, hành vi của vụ án, những tình tiết chưa rõ khi mà CQĐT chưa cung cấp hoặc có nghi ngờ về tính khách quan. Thông thường các vụ án Cướp tài sản và những vụ án xâm phạm sở hữu có đồng phạm, khi thực hiện hành vi phạm tội họ thường khai về địa điểm, hoàn cảnh lúc thực hiện tội phạm, sự phân công vai trò trách nhiệm trong đồng phạm khi có nghi ngờ về lời khai Kiểm sát viên vẫn chưa tiến hành các hoạt động thực nghiệm điều tra.
- Trong công tác giám định, theo quy định tại Điều 155 BLTTHS “...khi xét thấy cần thiết thì cơ quan tiến hành tố tụng ra quyết định trưng cầu giám định...”, khi cần thiết để biết giá trị tài sản bị xâm hại trong các vụ án xâm phạm sở hữu thì CQĐT phải ra quyết định trưng cầu định giá tài sản, khi Hội đồng định giá tài sản ra kết luận về trị giá tài sản thì Kiểm sát viên phải kiểm sát việc định giá này có phù hợp với vụ án không, có đúng với thực tế không. Có những vụ án khi Hội đồng định giá một tài sản kết luận trị giá tài sản đó ngang với thời điểm bị mất trên thị trường nhưng Kiểm sát viên không tham khảo, không xem xét tình hình thị trường, mặt hàng đưa ra định giá đó cá trị giá hiện tại bao nhiêu, đã qua sử dụng nhưng tại sao lại có giá trị như còn mới. Hoặc đối với những vụ án xâm phạm tính mạng, sức khỏe... nhiều khi cần thiết phải giám định để xác định tổn hại hoặc các vấn đề khác nhưng khi xuất hiện những tình tiết có thể nghi ngờ về kết quả giám định như vậy nhưng Kiểm sát viên vẫn không áp dụng Điều 159 BLTTHS để trưng cầu giám định bổ sung hoặc giám định lại, cũng là một sai sót, yếu kém.
- Kiểm sát viên trong khi THQCT và KSĐT các vụ án hình sự, nhiều khi chưa tuân thủ thực hiện đầy đủ những việc cần phải làm theo quy định của Quy chế kiểm sát điều tra như ghi vào sổ sách đầy đủ những mục, chỉ mục theo hướng dẫn, chưa tiến hành những hoạt động thu thập chứng cứ đối với những chứng cứ mà tự mình bổ sung được...
- Một số bộ phận Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán chưa đủ bản lĩnh chính trị, đang còn e ngại vì sợ “đụng chạm”, đôi khi chưa kiên quyết xử lý những người phạm tội vì sợ ảnh hưởng đến lợi ích của mình.
III. MỘT SỐ HẠN CHẾ, VƯỚNG MẮC KHI THỰC HIỆN BLTTHS VÀ KIẾN NGHỊ
BLTTHS sau một thời gian thực hiện thì cũng xuất hiện những vướng mắc, hạn chế trên thực tế cần phải sữa đổi, bổ sung. Luật tố tụng hình sự được coi là luật hình thức nên về nguyên tắc các quy định càng chi tiết, cụ thể càng tạo điều kiện thuận lợi cho người áp dụng cũng như người tuân thủ và chấp hành pháp luật. Hiện nay, có không ít các quy định trong BLTTHS năm 2003 vì chưa quy định cụ thể nên dẫn tới những cách hiểu khác nhau và sự không thống nhất khi áp dụng các quy định đó trong thực tiễn. Quá trình thực hiện trên thực tiễn, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đồng Hới thấy một số vướng mắc, hạn chế tồn tại trong BLTTHS và có kiến nghị như sau:
1. Về các nguyên tắc BLTTHS
BLTTHS có quy định từ Điều 3 đến Điều 32 là những nguyên tắc cơ bản, những nguyên tắc này có giá trị xuyên suốt trong quá trình thực hiện nhưng trên thực tế có những bất cập và chưa phù hợp với xu hướng quốc tế.
- Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự mỗi Điều tra viên, Kiểm sát viên và Thẩm phán đều tuân thủ các nguyên tắc của BLTTHS đặt ra nhưng bất cứ vụ án nào từ ít nghiêm trọng cho đến đặc biệt nghiêm trọng có rất nhiều tình tiết cần phải chứng minh bao gồm chứng cứ buộc tội cũng như gỡ tội. Khi xử lý vụ án là chúng ta đang điều tra, làm rõ quá khứ, những hành vi, hậu quả đã thực hiện, đã xảy ra vì thế dù cho nhiều chứng cứ buộc tội đến đâu đi chăng nữa nhưng chỉ cần một tình tình gỡ tội là toàn bộ chứng cứ buộc tội đều vô nghĩa. Tại Điều 9 và Điều 10 của BLTTHS có quy định “Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật” và “Xác định sự thật của vụ án”, những nguyên tắc này xét thấy chưa đủ và chưa phù hợp với thực tế. Đề nghị bổ sung thêm nguyên tắc “Suy đoán vô tội” nhằm góp phần vào giải quyết vụ án được một cách chính xác toàn diện tuyệt đối và phù hợp với thực tế hơn.
- Mọi người khi đã tham gia vào quá trình của tố tụng thì được đảm bảo quyền bình đẳng trước pháp luật. Theo quy định hiện hành và theo tại Điều 9 thì chỉ có cơ quan tiến hành tố tụng và cụ thể là những người tiến hành tố tụng là có quyền thu thập chứng cứ, những chứng cứ được chấp nhận là những chứng cứ đầy đủ những thuộc tính theo quy định, như vậy vấn đề đặt ra ở đây là ngoài những người trên có quyền thu thập chứng cứ hay không? Trên thực tế tại phiên tòa nhiều trường hợp luật sư, trợ giúp viên pháp lý, bào chữa viên nhân dân... có đưa ra những chứng cứ tại phiên tòa nhưng nhiều khi không được công nhận, mặc dù những tình tiết đó có liên quan đến vụ án. Vì thế chúng tôi đề nghị bổ sung nguyên tắc về “Thu thập, bổ sung chứng cứ”, những người nào cung cấp sai sự thật, tự tạo chứng cứ phải chịu trách nhiệm hình sự.
- Về các giai đoạn tố tụng trong giải quyết vụ án. Hiện nay, tất cả các vụ án hình sự khi giải quyết đều trải qua 04 giai đoạn: Giai đoạn khởi tố, giai đoạn điều tra, giai đoạn truy tố, giai đoạn xét xử và giai đoạn thi hành án. BLTTHS hiện nay chưa có quy định nào thể hiện rõ ràng có các giai đoạn trên. Tại Điều 76 BLTTHS có thừa nhận gián tiếp có giai đoạn điều tra, giai đoạn truy tố và giai đoạn xét xử. Để khẳng định điều này đề nghị sửa đổi, bổ sung thêm quy định về các giai đoạn tố tụng.
2. Về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng
- Hiện nay BLTTHS có quy định cụ thể về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của người tiến hành tố tụng nhưng đối với những người trực tiếp xử lý vụ án hình sự như Điều tra viên, Kiểm sát viên còn chưa có sự độc lập trong việc tiến hành một số biện pháp điều tra, áp dụng biện pháp ngăn chặn. Những người này còn chịu sự chi phối nhiều về mặt hành chính, về mặt quyền hạn trong tố tụng nhiều khi dẫn đến khó khăn trong công tác giải quyết vụ án. Đề nghị sửa đổi Điều 35, Điều 37 theo hướng tăng cường quyền hạn của Điều tra viên, Kiểm sát viên đặc biệt trong vấn đề áp dụng biện pháp ngăn chặn để tạo điều kiện cho những người này thực hiện được nhiệm vụ theo quy định của pháp luật.
- Nhiều vụ án các bị can được tại ngoại, bị hại, người làm chứng... được Kiểm sát viên triệu tập đến để lấy lời khai làm rõ những tình tiết liên quan đến vụ án nhưng những người này không chịu đến thì Kiểm sát sát viên hiện nay không thể làm gì được (ngoài trừ bị can) vì quyền hạn của Kiểm sát viên không có áp giải bị can và dẫn giải người làm chứng. Đề nghị bổ sung quyền hạn của Kiểm sát viên “Quyết định áp giải bị can, quyết định dẫn giải người làm chứng” và quy định luôn việc Cơ quan điều tra phải hổ trợ trong việc thực hiện quyền này.
- Về quyền và nghĩa vụ của người bị hại. Trên thực tế nhiều vụ án hình sự cần thiết phải có sự hợp tác của bị hại ví dụ như tỷ lệ thương tật trong những vụ án giao thông, những vụ án cố ý gây thương tích nhưng bị hại không hợp tác dẫn đến không giám định được tỷ lệ thương tật nên giải quyết vụ án nhiều khi chưa được chính xác, những vụ án về cố ý gây thương tích cũng tương tự. Kiến nghị bổ sung Điều 51 thêm quy định bị hại có thể bị dẫn giải để đảm bảo cho việc điều tra, xử lý vụ án.
- Điều 54 BLTTHS quy định về người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, theo quy định hiện hành thì những người này chưa phù hợp với thực tế. Trong một vụ án có đồng phạm thì có người bị khởi tố hoặc có người không khởi tố vì chưa đủ cấu thành tội phạm, những người này xét thấy có những nghĩa vụ nhiều hơn, họ phải khai báo đầy đủ và có thể giá trị lời khai của họ được đánh giá hơn người làm chứng nhưng điều luật chưa có chế tài về trường hợp họ khai báo gian dối. Đề nghị tách riêng người có quyền lợi và người có nghĩa vụ thành hai điều riêng biệt để dễ phân hóa trên thực tế.
- Điều 60 BLTTHS quy định về người giám định. Như chúng ta biết người giám định nằm trong tổ chức giám định nhưng hiện nay trong BLTTHS chưa có quy định cụ thể về chức năng giám định của tổ chức, vì thế kiến nghị quy định rõ về chức năng và nhiệm vụ của tổ chức giám định.
3. Về chứng cứ
- Tại Điều 10 và Điều 63 BLTTHS quy định những vấn đề cần chứng minh trong vụ án hình sự và xác định sự thật của vụ án, trong đó Tòa án là một trong những cơ quan chứng minh. Xét thấy theo tinh thần cải cách tư pháp, trên góc độ lý luận và thực tiễn thấy rằng Tòa án không phải là cơ quan có trách nhiệm chứng minh. Tòa án có chức năng xét xử và xem xét những chứng cứ của Viện kiểm sát truy tố có đảm bảo tội phạm có cấu thành hay không. Trách nhiệm chứng minh chỉ có ở Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát. Vì thế đề nghị bỏ trách nhiệm chứng minh của Tòa án tại điều này.
- Tại Điều 76 BLTTHS về xử lý vật chứng. Quy định hiện nay chỉ cho phép xử lý vật chứng khi vụ án đình chỉ và tùy vào ở giai đoạn nào thì cơ quan ở giai đoạn đó quyết định. Cơ quan điều tra nhiều khi vụ án không đình chỉ nhưng vẫn trả cho chủ sở hữu, hay trên thực tế nhiều vật chứng ở vụ án hình sự mặc dù liên quan đến việc phạm tội nhưng những vật chứng đó không của người thực hiện hành vi, ví dụ như dùng xe máy của bố mẹ đi cướp giật sau đó bị thu giữ... Xét thấy việc thu giữ tài sản đó có thể gây thiệt hại cho người chủ sở hữu hợp pháp cần thiết phải trả lại vì các vấn đề chứng minh đã đầy đủ nhưng luật vẫn chưa quy định. Mặt khác cần có quy định cụ thể chế định ràng buộc của Viện kiểm sát đối với Cơ quan điều tra trong việc xử lý vật chứng vì có nhiều trường hợp Cơ quan điều tra quyết định xử lý vật chứng đã gây khó khăn cho công tác giải quyết vụ án ở giai đoạn truy tố. Đề nghị sữa đổi điều luật này phù hợp với thực tế hơn nữa để tạo điều kiện thuận lợi cho người tiến hành tố tụng và những người chủ sở hữu hợp pháp.
4. Về những biện pháp ngăn chặn
Các biện pháp ngăn chặn là một trong những quyền năng của Cơ quan tiến hành tố tụng tác động trực tiếp đến một số quyền và lợi ích của bị can, bị cáo để đảm bảo việc điều tra, truy tố, xét xử được thực hiện hiện một cách triệt để, nó loại bỏ mọi cản trở từ khách quan cho đến chủ quan tác động tiêu cực đến việc xử lý vụ án vì thế nó có một ý nghĩa rất lớn trong việc phòng chống tội phạm nói chung.
Hiện nay BLTTHS quy định các biện pháp ngăn chặn sau đây: bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm, những biện pháp này được sắp xếp theo mức độ nhẹ dần. Qua quá trình thực hiện thấy những vướng mắc nổi lên như sau:
- Về bố cục thì thấy trong quy định trong Chương VI BLTTHS từ Điều 79 đến Điều 94 về cơ bản là hợp lý, nhưng thấy về thời hạn tạm giam thì không quy định trong chương này, mỗi giai đoạn được quy định về thời hạn tạm giam tương ứng. Với cách sắp xếp như hiện nay thấy rằng không khoa học và không phù hợp với kết cấu khi thực hiện. Đề nghị thời hạn tạm giam cả ba giai đoạn phải được quy định tại Chương VI để thể hiện tính thống nhất.
- Về thời hạn tạm giữ quy định tại Điều 87 BLTTHS, thấy rằng trong điều luật có dùng hai khái niệm “cần thiết” và “đặc biệt”, xét thấy hai trường hợp này luật không quy định rõ nên áp dụng tùy tiện vì thế cần sữa đổi theo hướng như thế nào là cần thiết và khi nào là đặc biệt để áp dụng thống nhất.
- Về thẩm quyền bắt bị can, bị cáo để tạm giam quy định tại Điều 80 BLTTHS. Thấy rằng theo quy định hiện hành những biện pháp liên quan đến tạm giam đều phải được phê chuẩn của Viện kiểm sát mới có hiệu lực pháp luật vì thế việc Cơ quan điều tra ra lệnh và quyết định những trường hợp này là không cần thiết, chỉ cần Viện kiểm sát quyết định áp dụng là đủ và đáp ứng với yêu cầu công tố. Vì thế đề nghị sữa đổi điều này theo hướng Viện kiểm sát quyết định việc bắt tạm giam, tạm giam, tạm giữ và gia hạn tạm giữ giao cho Cơ quan điều tra áp dụng là đủ đáp ứng với điều kiện hiện nay.
- Về căn cứ áp dụng tạm giam: Tại Điều 88 có quy định về tạm giam “...1. Tạm giam có thể được áp dụng đối với bị can, bị cáo trong những trường hợp sau đây...”, quy định trên đây thực chất vẫn là một quy định tùy nghi, việc quyết định áp dụng hay không áp dụng biện pháp tạm giam hoàn toàn phụ thuộc vào sự đánh giá của người tiến hành tố tụng hoặc cơ quan tiến hành tố tụng trong khi sự đánh giá đó nhiều khi mang tính chủ quan, áp đặt. Ví dụ, khi một người phạm tội ít nghiêm trọng hoặc một tội nghiêm trọng trước khi người này có hành vi cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc phạm tội mới thì căn cứ vào đâu để cho rằng người này sẽ thực hiện các hành vi đó để ngay lập tức phải áp dụng biện pháp tạm giam với họ. Như vậy cần phải sửa đổi BLTTHS quy định cụ thể trường hợp nào phải bắt tạm giam, trường hợp nào là không cần thiết tránh sự đánh giá cảm tính không có chứng cứ.
- Về thời hạn tạm giam: Thời hạn tam giam để điều tra quy định tại Điều 120 BLTTHS và thời hạn điều tra quy định tại Điều 119 BLTTHS, khi thực hiện trên thực tế và nghiên cứu hai điều luật trên thấy rằng thời hạn điều tra tối đa đối với tội phạm ít nghiêm trọng là 04 tháng nhưng thời hạn tạm giam đối với loại tội phạm này tối đa là 03 tháng. Tương tự, tội phạm nghiêm trọng thời hạn điều tra 08 tháng, thời hạn tạm giam tối đa 06 tháng; tội phạm rất nghiêm trọng thời hạn điều tra tối đa 12 tháng, thời hạn tạm giam tối đa là 09 tháng. Như vậy, ta thấy những quy định này thời hạn điều tra dài hơn thời hạn tạm giam, thực tế nhiều vụ án phức tạp liên quan đến nhiều đối tượng, thực hiện trên nhiều địa bàn, cần nhiều thời gian thu thập chứng cứ, định giá làm cho việc điều tra kéo dài đến khi hết thời hạn tạm giam nhưng vẫn còn thời hạn điều tra, tình trạng này dẫn đến buộc Cơ quan điều tra phải kết thúc điều tra chuyển toàn bộ hồ sơ sang Viện kiểm sát để truy tố, sau đó Viện kiểm sát sẽ quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung nhằm kéo dài thời hạn tạm giam. Kiến nghị thay đổi thời hạn tạm giam trên theo hướng “thời hạn tạm giam không được quá thời hạn điều tra, thời hạn gia hạn tạm giam không quá thời hạn gia hạn điều tra”, có như vậy mới phù hợp với thực tiễn.
- Việc khi thực hiện các lệnh, quyết định bắt, tạm giữ, tạm giam xét thấy việc thực hiện những biện pháp này ảnh hưởng đến những quyền cơ bản của công dân vì thế việc kiểm sát thi hành những lệnh, quyết định rất quan trọng. Hiện nay các điều luật chưa thể hiện được sự hiện diện của Viện kiểm sát vì thế đề nghị BLTTHS sửa đổi, bổ sung cần thêm quy định phải có mặt Kiểm sát viên để đảm bảo việc bắt, tạm giữ, tạm giam đúng pháp luật, đảm bảo những quyền và nghĩa vụ của công dân trừ trường hợp khẩn cấp, quả tang.
- Về áp dụng biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh và biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm. Theo quy định thì 02 biện pháp này là thay thế biện pháp tạm giam. Trên thực tế có hai cách hiểu về quy định trên: Thứ nhất, áp dụng đối với bị can đang bị tạm giam sau đó thay thế bằng một trong hai biện pháp trên. Thứ hai, áp dụng đối với bị can đáng lẽ ra phải bị tạm giam (chưa bị tạm giam) nhưng thay thế bằng một trong hai biện pháp trên. Vì thế, kiến nghị BLTTHS sửa đổi, bổ sung tới đây quy định cụ thể căn cứ để áp dụng hai biện pháp ngăn chặn này.
- Về hủy bỏ hoặc thay thế biện pháp ngăn chặn quy định tại Điều 94 BLTTHS. Trên thực tế thực hiện có nhiều quan điểm. Hủy bỏ biện pháp ngăn chặn có nghĩa là hủy bỏ biện pháp ngăn chặn đang áp dụng đối với bị can, bị cáo và không cần áp dụng biện pháp ngăn chặn nào khác đối với họ. Ngược lại, thay thế biện pháp ngăn chặn có nghĩa là thay thế biện pháp ngăn chặn đang áp dụng đối với bị can, bị cáo bằng một biện pháp ngăn chặn khác có thể nặng hơn hoặc nhẹ hơn. Hiện nay BLTTHS và văn bản hướng dẫn chưa đề cập đến vấn đề này. Ví dụ bị can đang bị tam giam, giờ thay đổi biện pháp ngăn chặn khác đòi hỏi phải cơ quan có thẩm quyền ra quyết định hủy bỏ trước sau đó ra quyết định áp dụng biện pháp ngăn chặn khác hay là ra quyết định thay đổi trước. BLTTHS sửa đổi, bổ sung tới đây cũng cần phải làm rõ được vấn đề này tránh sự tùy tiện, không thống nhất.
5. Về án phí
Theo quy định tại khoản 3 Điều 99 BLTTHS thì người bị hại phải chịu án phí khi không còn yêu cầu khởi tố (những vụ án khởi tố theo yêu cầu bị hại). Thực tế diễn ra khi bị hại yêu cầu khởi tố thì các cơ quan tiến hành tố tụng tiến hành điều tra, thực hiện các biện pháp cần thiết như trưng cầu giám định, xác minh sự việc, triệu tập người làm chứng... những công tác này sẽ làm mất chi phí như chi trả cho việc giám định, trả tiền tàu xe cho người làm chứng... Trong trường hợp người bị hại rút đơn thì BLTTHS chưa quy định cụ thể về việc quyết định nộp án phí trong giai đoạn điều tra, truy tố. Cần phải bổ sung vấn đề này vào BLTTHS sửa đổi, bổ sung sau này.
6. Về khởi tố vụ án hình sự
BLTTHS đã quy định về căn cứ khởi tố vụ án hình sự, quyết định việc khởi tố và không khởi tố vụ án hình sự, kiểm sát việc khởi tố và không khởi tố vụ án hình sự và những vấn đề khác liên quan đến việc khởi tố vụ án. Phần lớn các quy định đã đi vào cuộc sống và thực hiện có hiệu quả nhưng đôi khi một số trường hợp trên thực tế những quy định chưa đáp ứng được.
- Để khởi tố vụ án đúng pháp luật, một trong những căn cứ quan trọng và chiếm tỷ lệ nhiều là tin báo, tố giác về tội phạm trực tiếp do Cơ quan điều tra nắm được nhưng hiện nay việc kiểm sát của Viện kiểm sát về giải quyết các tin báo, tố giác trên chưa được hiệu quả vì do BLTTHS quy định còn chung chung, chưa cụ thể nhiệm vụ và quyền hạn trong vấn đề này. Hiện nay, Viện kiểm sát muốn nắm được tin báo, tố giác về tội phạm phải trực tiếp đến nắm tại Cơ quan điều tra, Cơ quan điều tra có thể cung cấp, có thể không cung cấp và có thể cung cấp không đầy đủ vì vấn đề này chưa được quy định cụ thể. Đề nghị BLTTHS mới bổ sung thêm nghĩa vụ cung cấp thông tin về tội phạm giữa Cơ quan điều tra với Viện kiểm sát và quy định thêm các quyền năng cụ thể của Viện kiểm sát để việc kiểm sát được chặt chẽ và có hiệu quả hơn. Hiện nay, đã có Thông tư 06/2013/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT-VKSNDTC ngày 02/8/2013 của liên ngành hướng dẫn thi hành quy định của BLTTHS về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố nhưng trên thực tế vẫn chưa đi vào nề nếp vì còn nhiều vấn đề bất cập.
- Những cơ quan được giao thẩm quyền khởi tố một số vụ án như Hải quan, Kiểm lâm... vẫn chưa có cơ chế để Viện kiểm sát kiểm sát việc xử lý thông tin liên quan đến tội phạm trong lĩnh vực mình quản lý. Chúng tôi kiến nghị bổ sung quy định về việc các cơ quan này chịu sự kiểm sát của Viện kiểm sát trong vấn đề tin báo, tố giác về tội phạm liên quan trong lĩnh vực những cơ quan đó phụ trách nhằm tránh để lọt tội phạm.
- Về việc Hội đồng xét xử ra quyết định khởi tố vụ án tại Điều 104 BLTTHS, trên thực tiễn xét xử đến nay, Hội đồng xét xử rất ít khi khởi tố một vụ án, hơn nữa nếu xuất hiện tình tiết mới Hội đồng xét xử có thể quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung vì thế Hội đồng xét xử không khởi tố vụ án, hơn nữa chức năng của Tòa án là chức năng xét xử không phải chức năng điều tra, công tố nên xét về mặt lập pháp, mặt thực tiễn không nên quy định về quyền khởi tố đối với Hội đồng xét xử.
- Điều 102 BLTTHS quy định về những việc phải làm khi có người tự thú đến tự thú nhưng trên thực tế có những người đang bị truy nã ra đầu thú thì thủ tục của họ như thế nào thì vẫn chưa quy định, thiết nghĩ cơ quan chức năng cần bổ sung thêm tiếp nhận người ra đầu thú.
- Tại Điều 104 BLTTHS có quy định Viện kiểm sát chỉ có quyền khởi tố vụ án trong hai trường hợp đó là hủy bỏ quyết định không khởi tố của các cơ quan quy định tại điều luật và Hội đồng xét xử yêu cầu khởi tố vụ án. Trên thực tế trong quá trình thực hiện chức năng của mình Viện kiểm sát nhiều khi phát hiện những trường hợp vi phạm pháp luật nhưng không khởi tố vụ án được như thông qua việc truy tố, thông qua xác minh tin báo, tố giác tội phạm... Đề nghị sữa đổi điều này mở rộng quyền khởi tố vụ án đối với Viện kiểm sát.
- Tại Điều 105 BLTTHS quy định cụ thể vấn đề này, những tội phạm quy định tại khoản 1 các Điều 104, 105, 106, 108, 109, 111, 113, 121, 122, 131 và 171 của Bộ luật hình sự chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại hoặc của người đại diện hợp pháp của người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất. Những quy định như trên ta thấy trên thực tiễn có nhiều kẻ hở. Ví dụ như về tội phạm cố ý gây thương tích quy định tại Điều 104 Bộ luật hình sự muốn khởi tố phải căn cứ vào giám định tỷ lệ thương tật nhưng bị hại lại không muốn giám định trong khi đó tính chất loại tội phạm này thể hiện sự hung hãn, coi thường tính mạng, sức khỏe người khác, xem thương trật tự trị an, xã hội và hơn thế nữa làm cho nhân dân mất vào sự kỷ cương của pháp luật nên cần xử lý nhưng cấu thành khung cơ bản của tội này cần phải có yêu cầu bị hại sau đó mới định được khung hình phạt. Chính vì thế đề nghị sửa đổi Điều 105 BLTTHS phù hợp với thực tế hơn theo hướng bỏ những tội danh 104, 111 trong điều này.
7. Về quy định điều tra, khởi tố bị can
Trong việc giải quyết vụ án hình sự, những vụ án được khởi tố giữa hai cơ quan Viện kiểm sát và Cơ quan cảnh sát điều tra về cơ bản đã thực hiện đúng theo quy định, mối quan hệ giữa hai cơ quan được từng bước nâng cao nên quá trình thực hiện và chưa có vướng mắc trong giai đoạn này.
Nhưng trong việc kiểm sát việc khởi tố của các cơ quan được giao một số hoạt động điều tra thì thấy còn vướng mắc trên thực tế.
Tại Điều 111 BLTTHS quy định quyền hạn điều tra của Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển và các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra chúng tôi thấy rằng quy định chưa cụ thể, chưa thể hiện được vai trò công tố của Viện kiểm sát làm cho việc thực hiện còn lúng túng.
Ở quy định này, các cơ quan này có quyền khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với tội phạm ít nghiêm trọng nhưng tại khoản 3 Điều 111 chỉ quy định Viện kiểm sát chỉ có trách nhiệm kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra (kiểm sát điều tra) chứ không quy định việc phê chuẩn quyết định khởi tố bị can của các cơ quan này như vậy chức năng công tố của Viện kiểm sát không có ở đây làm cho việc phê chuẩn về mặt pháp lý chưa đúng pháp luật. Mặt khác tại Điều 126 BLTTHS quy định về việc khởi tố bị can, BLTTHS chỉ có nói đến việc Viện kiểm sát phê chuẩn đối với quyết định khởi tố bị can của Cơ quan điều tra còn những quyết định của những cơ quan trên không quy định, như vậy khi thực hiện quyền công tố Viện kiểm sát sẽ gặp những vướng mắc tại quy định này đối với những vụ án có liên quan, nhiều khi việc truy tố không đảm bảo. Vì thế, đề nghị bổ sung việc phê chuẩn quyết định khởi tố bị can đối với những vụ án do các cơ quan trên khởi tố lúc đó mới đảm bảo được quyền công tố một cách hiệu quả, đúng pháp luật.
- Về gia hạn điều tra quy định tại Điều 119 BLTTHS, trên thực tế việc điều tra và kiểm sát điều tra tại cấp huyện thì những cơ quan trực tiếp làm biết rõ những vướng mắc, khó khăn đối với những loại vụ án cần giải quyết vì thế khi cần gia hạn lâu hơn với quy định hiện nay có trường hợp phải xin Viện kiểm sát tỉnh gia hạn là chưa hợp lý và không logic với tính chịu trách nhiệm, vì thế đề nghị sửa đổi theo hướng không quy định Viện kiểm sát tỉnh gia hạn, mà giao cho cấp có thẩm quyền giải quyết trực tiếp quyết định.
- Về khởi tố bị can quy định tại Điều 126 BLTTHS, tương tự như áp dụng các biện pháp bắt, tạm giam, quyết định khởi tố bị can có hiệu lực kể từ khi được Viện kiểm sát phê chuẩn. Kiến nghị chuyển quyền khởi tố bị can sang Viện kiểm sát là phù hợp và tinh giản thủ tục hơn. Cơ quan điều tra chỉ cung cấp chứng cứ và đề nghị khởi tố là đủ.
- Về yêu cầu điều tra, quyền hạn của Kiểm sát viên có quyền đề ra yêu cầu điều tra. Yêu cầu điều tra có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong quá trình điều tra, thông qua yêu cầu điều tra Kiểm sát viên có thể yêu cầu Cơ quan điều tra cụ thể là Điều tra viên thực hiện những công việc theo quy định, yêu cầu khắc phục những vi phạm nếu Điều tra viên vi phạm hoặc không tuân thủ pháp luật. Yêu cầu làm rõ những tình tiết của vụ án để xác định toàn diện vụ án. Nhưng hiện nay BLTTHS không quy định về hình thức của yêu cầu điều tra, thời hạn thực hiện yêu cầu điều tra của Điều tra viên. Chúng tôi đề nghị bổ sung quy định về hình thức và thời hạn đối với yêu cầu điều tra của Kiểm sát viên.
- Tại Điều 124 BLTTHS quy định về không được tiết lộ bí mật điều tra, trong quy định này chủ thể phải đảm bảo bí mật gồm Điều tra viên, Kiểm sát viên... nhưng đối với Thẩm phán lại không quy định, vô hình chung Thẩm phán có thể được tiết lộ bí mật. Trong những vụ án Tòa án trả hồ sơ điều tra bổ sung có những chứng cứ liên quan đến việc có tội hay không có tội, bổ sung về việc định tội danh, liên quan các tình tiết khác cần giải quyết trong vụ án, lúc này chính Thẩm phán thụ lý cũng phải đảm bảo không tiết lộ những yêu cầu của mình để Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra thuận lợi trong việc làm rõ những yêu cầu đó. Vì thế BLTTHS cần bổ sung thêm đối tượng không tiết lộ bí mật điều tra.
- Tại Điều 138 BLTTHS quy định về đối chất, khi có mâu thuẫn lời khai thì “...Điều tra viên tiến hành đối chất...”, trên thực tế nhiều vụ án phức tạp đặc biệt là án tham nhũng, án kinh tế, những bị can trong các loại tội phạm này thông thường không khai nhận hành vi của mình hoặc khai không đúng sự thật và nhiều khi mâu thuẫn với những lời khai của những đối tượng khác, luật quy định như trên thấy rằng việc đối chất chưa mang tính bắt buộc vì thế thực tế nhiều khi giải quyết vụ án giữa Điều tra viên, Kiểm sát viên còn lúng túng, bên thì thấy cần thiết đối chất, bên thì cho rằng đối chất không có kết quả nên không cần đối chất. Để làm rõ sự thật khách quan kiến nghị sữa đổi theo hướng bắt buộc “...phải tiến hành đối chất...”.
- Về việc trưng cầu giám định: Theo Điều 64, Điều 155 BLTTHS kết luận giám định là một nguồn chứng cứ rất quan trọng. Trong một số vụ án, kết luận giám định như một chứng cứ bắt buộc phải có để làm cơ sở cho việc xác định có hay không có tội phạm xảy ra. Nhiều loại tội phạm kết luận giám định có ý nghĩa vô cùng quan trọng, nó không những là yếu tố định tội, định khung hình phạt mà còn xác định được thiệt hại xảy ra. Nhưng trong BLTTHS hiện hành chưa quy định thời hạn trả lời trưng cầu giám định, có nghĩa là khi cơ quan tiến hành tố tụng có quyết định trưng cầu giám định thì cơ quan được trưng cầu giám định phải trả lời bằng văn bản nhưng thời hạn trả lời như thế nào thì hiện chưa có, dẫn đến nhiều vụ việc kéo dài. Vì thế cần phải quy định thêm phần thời hạn trả lời trưng cầu giám định trong BLTTHS. Mặt khác giá trị tài sản bị xâm hại là yếu tố định tội của rất nhiều tội danh nhưng hiện nay tại Điều 155 BLTTHS vẫn chưa quy định, vì thế cần bổ sung những vấn đề cần định giá có giá trị tài sản (định giá trong tố tụng).
- Việc kết luận điều tra được quy định tại Điều 162 BLTTHS, tại điều luật này chỉ mới quy định sau khi kết thúc điều tra Cơ quan điều tra phải ra bản kết luận điều tra. Trong trường hợp vụ án bị Viện kiểm sát trả hồ sơ để điều tra bổ sung, Cơ quan điều tra không thể ra bản kết luận điều tra nữa mà phải ra bản kết luận điều tra bổ sung (vì một vụ án chỉ có một sự thật và chỉ có một bản kết luận điều tra). BLTTHS chưa quy định về việc kết luận điều tra bổ sung vì thế cần bổ sung quy định này.
8. Quy định về việc truy tố
Quyết định việc truy tố được quy định từ Điều 166 đến 169 BLTTHS, trên thực tế có vướng mắc sau:
- Về lý luận thì một vụ án có một bản cáo trạng để truy tố một hoặc nhiều bị can, khi Cơ quan điều tra kết thúc điều tra đối với vụ án nhiều bị can và đề nghị Viện kiểm sát truy tố, trong giai đoạn này Viện kiểm sát có bản cáo trạng và tống đạt cho từng bị can, nhưng có bị can vì lý do nào đó không tống đạt được phải tạm đình chỉ dẫn đến việc ban hành lại bản cáo trạng, lúc này những bản cáo trạng trước đã tống đạt có cần thu hồi hay xử lý thế nào trên thực tế luật chưa quy định và hướng dẫn. Vì thế cần có quy định về việc này để đảm bảo được tính thống nhất.
- Thời hạn giao nhận bản Cáo trạng theo quy định là 03 ngày kể từ khi ban hành phải giao cho bị can. Xét thấy trên thực tế phần lớn những vụ án bị can bị tạm giam trong phạm vi gần như nhà tạm giữ, trại tạm giam trên địa bàn thì việc tống đạt với thời hạn như trên là đảm bảo, nhưng với những vụ án có bị can tại ngoại ở xa hoặc những bị can đang bị tam giam, thi hành án tại những địa phương xa thì với thời hạn như hiện nay không đảm bảo được việc tống đạt dẫn đến buộc phải vi phạm pháp luật về thời hạn này. Kiến nghị quy định dài hơn đối với thời hạn tống đạt cáo trạng hoặc quy định thời gian chuyển hồ sơ sang tòa sau khi bản cáo trạng được tống đạt.
- Cũng như kết luận điều tra, việc Tòa án trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung, trong trường hợp như thay đổi khung hình phạt, thay đổi tội danh thì bản cáo trạng trước đó như thế nào. Viện kiểm sát ban hành bản cáo trạng mới vô hiệu hóa bản cáo trạng củ hay là vẫn tồn tại hai bản cáo trạng. Vì thế Điều 167 BLTTHS cũng cần phải quy định lại theo hướng bổ sung về vấn đề trên.
- Những vụ án hình sự Viện kiểm sát cấp huyện được Viện kiểm sát cấp tỉnh chuyển truy tố theo thẩm quyền hiện nay trên thực tế còn nhiều vướng mắc cả trong quy định và trong thực tiễn.
Chưa có quy định về việc truy tố theo thẩm quyền trong BLTTHS.
Khi Cơ quan điều tra cấp tỉnh kết thúc điều tra, chuyển hồ sơ đề nghị truy tố sang Viện kiểm sát cấp tỉnh. Sau khi nghiên cứu thấy rằng cần thiết phải chuyển vụ án truy tố theo thẩm quyền cho Viện kiểm sát cấp huyện lúc này thời hạn truy tố gần hết, Viện kiếm sát cấp huyện có thời hạn bao nhiêu để quyết định việc truy tố. Nhiều vụ án khi Viện kiểm sát cấp trên chuyển về thời hạn truy tố gần hết, thời hạn tạm giam gần hết thì xử lý như thế nào? Thời hạn truy tố của Viện kiểm sát cấp huyện được tính từ khi nhận hồ sơ vụ án hay là từ khi Cơ quan điều tra kết thúc điều tra đề nghị truy tố. Đây là vấn đề quan trọng vì thế cần phải bổ sung quy định này tạo điều kiện thuận lợi cho Viện kiểm sát cấp dưới quyết định truy tố.
Đối với những vụ án khi nghiên cứu Viện kiểm sát cấp huyện thấy rằng việc truy tố chưa đảm bảo, cần phải có những tài liệu, chứng cứ khác vì thế cấn thiết trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Về nguyên tắc chỉ trả hồ sơ trong phạm vi cùng cấp, nhưng vụ án này được Viện kiểm sát tỉnh chuyển truy tố theo thẩm quyền thì Viện kiểm sát cấp dưới thực hiện như thế nào? Thời hạn như thế nào? Những vấn đề này cũng cần thiết phải được sửa đổi, bổ sung.
9. Về quy định về xét xử sơ thẩm
Quy định về xét xử sơ thẩm từ Điều 170 đến Điều 229 BLTTHS, trên thực tiễn áp dụng thấy có những hạn chế, vướng mắc sau:
- Tại Điều 174 quy định về việc Tòa án chuyển vụ án, xét thấy quy định này chưa đúng với chức năng công tố theo thẩm quyền. Không thể một vụ án ở một địa phương khác do Viện kiểm sát truy tố nhưng Tòa án chuyển sang địa phương khác để Viện kiểm sát ở đó thực hiện quyền công tố được mà Tòa án phải trả hồ sơ để Viện kiểm sát chuyển truy tố theo thẩm quyền, khi đó Tòa án đúng thẩm quyền mới xét xử được. Đề nghị sửa đổi lại quy định này theo hướng Tòa án không được chuyển vụ án mà phải do Viện kiểm sát chuyển vụ án.
- Tại Điều 192 BLTTHS quy định về người làm chứng, theo quy định “... chủ tọa phiên tòa công bố những lời khai...”, theo quy định những vụ án có người làm chứng khi được triệu tập đến phiên tòa nhưng không đến thì có bắt buộc luôn phải công bố lời khai người làm chứng hay chỉ khi thấy cần thiết. Quy định hiện nay chưa rõ ràng vì thế áp dụng còn chưa thống nhất, đề nghị sữa đổi, bổ sung điều này cho phù hợp.
- Giới hạn xét xử được quy định tại Điều 196 BLTTHS, quy định từ điều này cho thấy Tòa án có thể xét xử bị cáo khác khoản mà Viện kiểm sát truy tố trong một điều luật, trên thực tế có những vụ Viện kiểm sát truy tố khoản nào đó không có mức hình phạt chung thân, tử hình nhưng Tòa án có thể xử mức án đó với khung khác có được không? Đây là câu hỏi đặt ra trong thực tiễn. Xét thấy Tòa án không thể xét xử được trường hợp này vì liên quan đến quyền bào chữa của bị cáo. Vì thế để hạn chế lạm quyền của Tòa án, chỉ nên quy định Tòa án chỉ xét xử những tội danh do Viện kiểm sát truy tố, nếu không đồng tình có thể trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
- Tại Điều 200 BLTTHS quy định về biên bản phiên tòa có quy định những đối tượng được xem biên bản phiên tòa, trong đó có Kiểm sát viên. Sau khi nghiên cứu và trên thực tế thấy rằng, quy định Kiểm sát viên có quyền xem biên bản phiên tòa là chưa đúng với chức năng nhiệm vụ của Viện kiểm sát, chưa đảm bảo được quyền công tố. Viện kiểm sát có phân công Kiểm sát viên tham gia phiên tòa với tư cách là thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử, như vậy ngoài chức năng thay mặt Nhà nước để buộc tội bị cáo còn chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử. Biên bản phiên tòa là một trong những văn bản pháp lý được lập tại phiên tòa, nó thể hiện diễn biến phiên tòa từ khi bắt đầu cho đến khi kết thúc, được thư ký tòa án lập. Chính vì đảm bảo sự khách quan, công bằng và là căn cứ sau này có thể làm chứng cứ cho những phiên tòa phúc thẩm, thậm chí giám đốc hoặc tái thẩm vì thế nó phải được Kiểm sát viên tham gia phiên tòa kiểm sát chặt chẽ. Chính vì thế, đề nghị sữa đổi BLTTHS về biên bản phiên tòa theo hướng “Kiểm sát viên tham gia phiên tòa kiểm sát việc lập biên bản của Thư ký tòa án, phải được Kiểm sát viên ký xác nhận giống như diễn biến tại phiên tòa”.
- Trình tự xét hỏi được quy định tại Điều 207 BLTTHS, trong đó có quy định thứ tự xét hỏi từ thẩm phán chủ tọa phiên tòa đến hội thẩm sau đó đến kiểm sát viên rồi đến luật sư. Trên thực tế nhiều vụ án Hội đồng xét xử hỏi quá nhiều, nhiều khi dẫn đến việc hỏi mớm cung, dụ cung dẫn đến khi Kiểm sát viên hỏi khó có thể để bị cáo khai hết bản chất sự việc, mặt khác Hội đồng xét xử đóng vai trò “trọng tài” trong quá trình luận tội và bào chữa của người bào chữa nên việc Kiểm sát viên hỏi để bảo vệ bản cáo trạng là rất quan trọng. Từ thực tiễn như thế chúng tôi kiến nghị sữa đổi điều này phải để Kiểm sát viên hỏi trước, Hội đồng xét xử chỉ hỏi những vấn đề mà Kiểm sát viên chưa hỏi rõ hoặc chưa đề cập để làm rõ thêm mới phù hợp với tinh thần cải cách tư pháp và phù hợp với chức năng công tố.
- Về việc giao bản án quy định tại Điều 229 BLTTHS, liên quan đến việc kháng nghị của Viện kiểm sát, điều luật này quy định bản án được giao cho Viện kiểm sát cùng cấp trong thời hạn nhất định nhưng đối với Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có quyền kháng nghị phúc thẩm nhưng lại không quy định về việc giao bản án, như vậy vô hình chung Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp không có căn cứ để kháng nghị kịp thời trong thời hạn quy định. Kiến nghị sữa đổi bổ sung thêm việc gửi bản án cho Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp.
10. Về phần thủ tục đặc biệt
- Đối với phần thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên. Tại Điều 303 BLTTHS quy định về bắt, tạm giữ, tạm giam đối với người chưa thành niên như sau “...2. Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi có thể bị bắt, tạm giữ, tạm giam nếu có đủ căn cứ quy định tại các điều 80, 81, 82, 86, 88 và 120 của Bộ luật này, nhưng chỉ trong những trường hợp phạm tội nghiêm trọng do cố ý, phạm tội rất nghiêm trọng hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng...”. Quy định này gây trở ngại trên thực tế ở chổ, tại Điều 12 BLHS quy định “1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm...”, những người phạm tội rất nhiều trường hợp là người chưa thành niên nằm trong độ tuổi từ 16 đến 18, khi họ phạm tội ít nghiêm trọng không bắt, tạm giữ, tạm giam được nhiều khi để họ tại ngoại lại tiếp tục phạm tội, khi phát hiện lại không thể áp dụng biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam làm cho công tác điều tra, truy tố nhiều khi gặp nhiều khó khăn vướng mắc. Kiến nghị sữa đổi Điều 303 BLTTHS phù hợp với BLHS để thực hiện khả thi hơn.
- Về thủ tục áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh. Theo quy định tại Điều 313 BLTTHS khi nhận được hồ sơ vụ án và bản kết luận điều tra thì Viện kiểm sát có thể ra một trong những quyết định sau: Tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án; Đình chỉ vụ án và quyết định áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh; Truy tố bị can trước Tòa án. Như vậy, Viện kiểm sát không có quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Về kỹ thuật lập pháp thấy điều này chưa phù hợp với Điều 166 BLTTHS, hơn nữa có những tình tiết khi đến giai đoạn truy tố mới phát sinh cần phải điều tra làm rõ nhưng Viện kiểm sát không thể tự mình điều tra bổ sung được nên cần phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung cho Cơ quan điều tra, tại Điều 313 BLTTHS lại không quy định nên khi thực hiện còn nhiều bất cập. Đề nghị sữa đổi bổ sung thêm việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
- Về thủ tục rút gọn. Việc BLTTHS quy định thủ tục rút gọn nhằm để đáp ứng giải quyết các vụ án hình sự nhanh chóng, đáp ứng với tinh thần đấu tranh phòng, chống tội phạm. Hiện nay các điều kiện để áp dụng thủ tục rút gọn được quy định tại Điều 319 BLTTHS nhưng thực tế rất ít những vụ án làm theo trình tự thủ tục rút gọn. Nguyên nhân thực hiện ít rất nhiều như: để mở rộng án, ít Điều tra viên nhưng số lượng án lớn... nhưng nguyên nhân chủ yếu vì luật không quy định bắt buộc phải áp dụng thủ tục rút gọn. BLTTHS sửa đổi, bổ sung chúng tôi kiến nghị sửa đổi Điều này cho phù hợp với thực tiễn.
Trên đây là một số vướng mắc trong thực tiễn trong khi thực hiện BLTTHS 2003./.

Tác giả bài viết: Đoàn Công Minh - VKSND H.Quảng Ninh

Tổng số điểm của bài viết là: 9 trong 2 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

 

ĐĂNG NHẬP NỘI BỘ

LIÊN KẾT WEBSITE

kiểm sát online
Văn bản pháp luật
vksndtc
Bộ pháp điển
Công báo điện tử quảng bình
Tuyển dụng công chức
Thư viện pháp luật
Bảo vệ pháp luật

SỐ LƯỢT TRUY CẬP

Đang truy cậpĐang truy cập : 95


Hôm nayHôm nay : 3308

Tháng hiện tạiTháng hiện tại : 69098

Tổng lượt truy cậpTổng lượt truy cập : 8391656

THĂM DÒ Ý KIẾN

Theo bạn, việc xây dựng cổng thông tin điện tử Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình sẽ mang lại kết quả thế nào ?

Rất tốt

Bình thường

Tạm được

Không ý kiến